Bài báo này chỉ ra tên tuổi của các CEO hàng đầu đã đạt được những thành tích đáng kinh ngạc ở các công ty lớn trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, hoặc với những người vẫn còn nắm chức vụ này cho đến ngày 30/9/2009. Để có được kết quả này, chúng tôi đã thu thập dữ liệu từ gần 2000 CEO trên toàn thế giới.
Chắc chắn rằng không có gì phải thắc mắc khi Steve Jobs, CEO tài ba của hãng máy tính Apple đứng đầu danh sách. Tuy nhiên, danh sách của chúng tôi cũng chứa đựng một vài ngạc nhiên nhỏ. Bạn sẽ bắt gặp một số gương mặt không mấy tiếng tăm ở những vị trí hàng đầu, trong khi một số tên tuổi nổi tiếng không nằm trong 50 (thậm chí 100 hay 200) người dẫn đầu danh sách. Phải thừa nhận rằng danh sách của chúng tôi không có nhiều điểm chung với danh sách những CEO được ngưỡng mộ nhất hay đắt giá nhất đã từng được công bố.
Khi phân tích dữ liệu để tìm ra yếu tố nào đóng vai trò quan trọng đưa một CEO lên hàng đầu trong danh sách, chúng tôi phát hiện ra nhiều điều đáng ngạc nhiên hơn nữa. Mặc dù người ta vẫn cho rằng bối cảnh có ảnh hưởng lớn, chúng tôi vẫn thấy những người đứng đầu danh sách đến từ các công ty có trụ sở ở các quốc gia và các ngành khác nhau. Tiểu sử của các CEO cũng quan trọng, cũng như những gì mà họ kế thừa từ những người tiền nhiệm.
Phân tích của chúng tôi nhấn mạnh ảnh hưởng của một CEO đến sự thay đổi của công ty, bên cạnh tác động của những yếu tố như ngành, quốc gia và các khuynh hướng kinh tế. Điều này lại một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng mục tiêu, phương pháp dài hạn để đánh giá một CEO và đưa ra các thông tin cho CEO về việc tìm kiếm và lập kế hoạch nhân sự kế thừa.
3 CEO xuất sắc nhất thế giới: Steve Jobs, Yun Jong-Yong, Alexey B. Miller.
Thành tích của các CEO được đánh giá như thế nào?
Các ứng cử viên cho bảng xếp hạng đến từ các công ty cổ phần niêm yết đại chúng trong danh sách chỉ số Standard & Poor’s Global 1200 hoặc nằm trong nhóm BRIC 40 đã được công bố năm 1997. Các công ty đến từ các nền kinh tế mới nổi với sự phát triển kinh tế đáng khâm phục như Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong danh sách này. Những CEO có tên trong danh sách phải bắt đầu đảm nhận vị trí công tác từ sau tháng 1/1995 đến trước tháng 12/2007. Đó là lý do vì sao bạn không nhìn thấy những tên tuổi như cựu CEO của GE – Jack Welch, nhà đầu tư siêu việt Warren Buffet, nhà sáng lập và CEO của tập đoàn Oracle Larry Ellision, và ông chủ đáng kính của tập đoàn Microsoft – tỷ phú Bill Gates. Họ đều bắt đầu đảm nhận công tác trước năm 1995. Nếu được tham gia vào danh sách, chắc chắn những CEO tài ba này sẽ chiếm những vị trí không tồi.
Trong số 1999 CEO có tên trong bảng xếp hạng, 731 người còn đang ở vị trí điều hành khi việc đo lường thành tích kết thúc. Họ đến từ 48 quốc gia khác nhau và điều hành những công ty có trụ sở ở 33 nước. Tuổi trung bình của những CEO này là 52, và những người còn đang ở vị trí công tác có thời gian điều hành trung bình là 6 năm. Chỉ 1,5% trong số đó là phụ nữ, và chỉ 15% làm việc trong những công ty có trụ sở không đặt ở tổ quốc của mình. Có thể thấy thị trường lao động cung cấp các nhà điều hành chưa phải là một thị trường toàn cầu.
Nhìn vào danh sách 1999 nhà điều hành và tự hỏi, nếu dựa trên tiêu chí lợi nhuận cổ phiếu, nhà điều hành nào đã dẫn dắt doanh nghiệp của mình vượt xa các công ty khác trong cùng quốc gia và cùng ngành? Xếp hạng của chúng tôi kết hợp ba tiêu chí: ảnh hưởng mang tính quốc gia, ảnh hưởng mang tính ngành, và thay đổi mức vốn hóa thị trường trong thời gian đảm nhận vị trí của các CEO. Tất nhiên, lợi tức cổ đông không phải là tiêu chí duy nhất để đo lường thành tựu, và tiêu chí này đã lãng quên sự đóng góp mà công ty tạo ra cho các bên liên quan. Nhưng đây vẫn được coi là một chỉ tiêu cơ bản đối với các CEO của công ty niêm yết. Và đây cũng là chỉ tiêu quan trọng cho tất cả mọi người.
Danh sách được hình thành như thế nào?
Các tiêu chí so sánh: Các dữ liệu kinh tế lấy từ kho dữ liệu Datastream và Worldscope của Reuters được sử dụng để tính lợi nhuận ngày trong suốt thời gian điều hành của các CEO (tính đến 30/9/2009 với các CEO còn đang tại nhiệm). Chúng tôi cũng tính toán lợi nhuận theo ngày cho 3 năm tiếp theo (nếu có thể). Ba tiêu chí được sử dụng có đặc điểm như sau: Lợi nhuận sau khi loại trừ các ảnh hưởng mang tính quốc gia Đầu tiên, chúng tôi tính ra tổng mức tăng lợi nhuận cổ đông (kể cả tái đầu tư lợi tức) trong quá trình điều hành của CEO. Sau đó loại trừ lợi nhuận trung bình mà các công ty khác cùng quốc gia đạt được trong cùng thời kỳ ra khỏi con số này. Điều này giúp chỉ số không bị ảnh hưởng bởi biến thiên chung mà trị trường mang lại. Lợi nhuận sau khi loại trừ các ảnh hưởng mang tính ngành Chúng tôi cũng loại trừ mức tăng chung của ngành để đảm bảo rằng kết quả còn lại không chịu tác động của các biến thiên mang tính ngành. Thay đổi mức vốn hóa thị trường Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu trong quá trình điều hành của CEO cũng được đưa vào so sánh. Chỉ số này được xác định sau khi cân nhắc mức lạm phát ở quốc gia tương ứng và quy đổi sang USD theo tỷ giá của năm 2006. Chúng tôi đưa thêm vào chỉ số này giá trị của cổ tức và cổ phiếu được mua lại sau khi điều chỉnh lạm phát và tiền tệ, và trừ đi giá trị của cổ phiếu đã được phát hành. Chúng tôi tạo ba 3 bảng xếp hạng riêng rẽ từ 1 đến 1999 dựa trên kết quả của 3 chỉ số nêu trên và lấy giá trị trung bình của 3 thứ tự này làm kết quả cuối cùng. Sử dụng đồng thời 3 tiêu chí trên giúp phương cách so sánh trở nên cân bằng hơn. Các công ty nhỏ sẽ lợi thế hơn nếu chỉ sử dụng hai tiêu chí đầu (bắt đầu từ mức nhỏ hơn sẽ dễ đạt được lợi nhuận lớn hơn) mà bỏ qua tiêu chí thứ ba, tiêu chí dành cho các công ty có quy mô lớn. Phân tích Chúng tôi cũng thực hiện phân tích hồi quy dựa trên dữ liệu của 1999 vị CEO. Điều này cho phép kiếm soát một số yếu tố và phân lập ảnh hưởng chúng mang lại (thí dụ như có bằng MBA) đối với xếp hạng của CEO đó trên danh sách. |
Những CEO hàng đầu xuất sắc đến mức nào?
Tính trung bình, 50 vị CEO dẫn đầu danh sách đã mang lại 997%, trung bình 32% một năm, lợi tức cổ đông (sau khi đã điều chính tỷ giá) trong suốt thời gian tại nhiệm. Loại trừ các ảnh hưởng mang tính ngành và quốc gia, con số này lần lượt là 30% và 29%. Như vậy 50 công ty dẫn đầu trung bình mang lại 48,2 tỷ USD cho các cổ đông (sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát, cổ tức, nhượng lại cổ phiếu và phát hành cổ phiếu mới). So sánh con số này với kết quả của 50 CEO đứng cuối trong danh sách 1.999 người, những người trong thời gian đảm nhận vị trí của mình đã gây giảm lợi nhuận cổ đông 70%, trung bình 20% một năm. Nói cách khác, những nhà điều hành thất bại này đã gây thâm hụt khoảng 18,3 tỷ USD giá trị sở hữu của cổ đông.
Người dẫn đầu vinh quang, ngài Jobs của Apple, đã mang lại mức tăng lợi nhuận lũy tiến khổng lồ 3.188% (sau khi đã điều chỉnh theo những ảnh hưởng mang tính ngành), trung bình 34% mỗi năm, cho hãng Apple kể từ khi ông quay trở lại với tư cách một CEO năm 1997, khi công ty đang đứng bên bờ vực phá sản. Cho đến cuối tháng 9/2009, linh hồn của những trái táo đã đưa giá trị thị trường của Apple tăng thêm 150 tỷ USD.
CEO cán đích ở vị trí thứ 2 là ngài Yun Jong-Yong. Ông tiếp nhận vị trí điều hành hãng điện tử Samsung của Hàn Quốc từ năm 1996 – 2008 và là mẫu lãnh đạo điển hình không thích hào quang. Quãng thời gian tại nhiệm của ông đã giúp Samsung chuyển mình từ một hãng chuyên sản xuất chip nhớ và các sản phẩm bắt chước thành nhà tiên phong trong lĩnh vực đồ điện tử và điện thoại di động công nghệ cao. Dưới sự điều hành của ông, giá trị cổ đông của Samsung đã tăng thêm 127 tỷ USD, và mức tăng lợi nhuận là 1.458% (sau khi đã điều chỉnh theo những ảnh hưởng mang tính ngành).
Ông Yun cũng giữ vị trí số 1 trong cuộc đua tranh với các CEO đã thôi vị trí công tác. Hồ sơ của những CEO này sẽ không thay đổi. Còn với những CEO còn đang tiếp tục điều hành với hồ sơ mở, chắc chắn sẽ có những cuộc soán ngôi ngoạn mục.
Một trong những CEO hàng đầu nhưng khiêm nhường và đáng kính khác là ngài John Martin của hãng Gilead Sciences ở vị trí thứ 6. Ông nắm giữ cương vị CEO của công ty dược phẩm sinh học có trụ sở ở California này từ năm 1996 và mang lại doanh thu 2.054% (sau khi đã điều chỉnh những ảnh hưởng mang tính ngành), trung bình 26% một năm. Nổi tiếng là một “lãnh đạo trầm lặng”, Martin đang nỗ lực để đưa một số loại thuốc chữa bệnh hiểm nghèo đến với các nước đang phát triển. Ông đang đưa Gilead dẫn đầu trong việc phát triển loại thuốc chữa AIDS liều dùng 1 viên/ngày và thuốc chống cúm Tamiflu.
Top 10 CEO hàng đầu thế giới (Tên – Công ty – Thời gian tại nhiệm – Quốc gia – Ngành): 1. Steve Jobs – Apple – 1997-nay – Mỹ – Công nghệ thông tin 2. Yun Jong-Yong – Samsung Electronics – 1996-2008 – Hàn Quốc – Công nghệ thông tin 3. Alexey B. Miller – Gazprom – 2001-nay – Nga – Năng lượng 4. John T. Chambers – Cisco Systems – 1995-nay – Mỹ – Công nghệ thông tin 5. Mukesh D. Ambani – Reliance Industries – 2002-nay – Ấn Độ – Năng lượng 6. John C. Martin – Gilead Sciences – 1996-nay – Mỹ – Y tế 7. Jeffrey P. Bezos – Amazon.com – 1996-nay – Mỹ – Bán lẻ 8. Margaret C. Whitman – eBay – 1998-2008 – Mỹ – Công nghệ thông tin 9. Eric E. Schmidt – Google – 2001-nay – Mỹ – Công nghệ thông tin 10. Hugh Grant – Monsanto – 2003-nay – Mỹ – Nguyên liệu |
CEO “ngôi sao” có thành công vượt bậc?
Khi so sánh với các danh sách xếp hạng CEO từng được công bố, một điểm thú vị mà độc giả có thể nhận ra là sự biến mất của một số tên tuổi. Ví dụ danh sách 30 CEO được ngưỡng mộ nhất thế giới của Barron công bố năm 2009. Danh sách này hình thành sau khi tham khảo ý kiến của các nhà đầu tư, phân tích, và các giám đốc điều hành. Có 5 vị CEO cùng xuất hiện trong danh sách của Barron và top 30 CEO dẫn đầu trong danh sách của chúng tôi: Steve Jobs của Apple, John Chambers của hãng thiết bị mạng Cisco, Jeff Bezos của trang web bán hàng trực tuyến Amazon, Hugh Grant của tập đoàn nông hóa khổng lồ Monsanto của Mỹ, và Terry Leahy từ Tesco, tập đoàn bán lẻ lớn thứ 3 thế giới. Nhưng có một số tên tuổi khác được Barron “ngưỡng mộ nhất” lại biến mất trong top 50 (thậm chí là 200) của chúng tôi, như: Jamie Dimon của JPMorgan Chase, Satoru Iwata của Nintendo, Sam Palmisano từ IBM, và Rex Tillerson của Exxon Mobil.
Một vài ngôi sao khác cũng chung số phận như: Carlos Ghosn của Renault-Nissan, Sergio Marchionne từ Fiat, John Mack của Morgan Stanley, Jeffrey Immelt đến từ General Electric, Daniel Vasella của Novartis, và thậm chí là Robert Iger của hãng hoạt hình Walt Disney. Sự biến mất này không nhất thiết là do họ đã điều hành kém cỏi mà dựa vào kết quả số học của tổng mức tăng lợi tức cổ đông được dùng cho danh sách của chúng tôi.
Chúng tôi cũng không tìm được mấy điểm tương đồng giữa top 50 của chúng tôi và danh sách những CEO được trả lương cao nhất của Mỹ. Nguyên nhân có thể là sự khác nhau về cấu trúc thời gian so sánh. Danh sách của chúng tôi quan tâm đến thành tựu dài hạn, trong khi danh sách những CEO được trả lương cao nhất của Mỹ chỉ đề cập đến các gói thù lao. Thế nên cơ hội tương đồng sẽ gia tăng khi so sánh với những danh sách khác cũng dựa trên các gói thù lao trong khoảng thời gian dài. 5 trong số 50 CEO có thù lao cao nhất theo bầu chọn của tạp chí Forbes dựa trên các gói thù lao từ 2003-2008 xuất hiện trong danh sách của chúng tôi. Có thể nói sự tương đồng giữa danh sách những CEO được ngưỡng mộ nhất và đắt giá nhất với 50 (thậm chí là 200) CEO dẫn đầu trong danh sách của chúng tôi là rất mong manh.
(còn nữa)
– Bài viết của các tác giả Morten T. Hansen, Herminia Ibarra và Urs Peyer trên Harvard Business Review –
Thu Hương dịch
Tuanvietnam